Vào một buổi sáng oi ả ở Đài Bắc, trước bình minh, Chủ tịch Pegatron TH Tung vẫn đang cúi gằm mặt trên bàn làm việc để phân tích danh mục năng lượng, lượng khí thải carbon, chính sách của chính phủ và nhiều thập kỷ dữ liệu liên quan đến năng lượng từ nhiều quốc gia.
Đó chỉ là một trong nhiều đêm mất ngủ mà ông Tung đã trải qua trong những tháng gần đây khi ông phải giải quyết một thách thức to lớn không chỉ đối với đế chế sản xuất thiết bị điện tử trị giá 40 tỉ USD của ông mà còn đối với toàn bộ Đài Loan: làm thế nào để dung hòa nhu cầu năng lượng khổng lồ của ngành công nghệ với nhu cầu cấp thiết phải cắt giảm khí thải nhà kính.
Ngoài Pegatron, quốc gia này còn là nơi đặt trụ sở của Taiwan Semiconductor Manufacturing Co. (TSMC), nhà sản xuất chip theo hợp đồng hàng đầu thế giới, Foxconn, nhà cung cấp iPhone quan trọng và là đơn vị lắp ráp máy chủ hàng đầu, cùng vô số nhà cung cấp công nghệ khác.
“Công nghệ sản xuất chip tiên tiến của TSMC, ngành công nghiệp xe điện đang bùng nổ và vị thế vững chắc của các nhà cung cấp Đài Loan trong chuỗi cung ứng AI, đây là những biểu tượng của nền kinh tế hiện đại hóa và đóng vai trò quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của Đài Loan”, ông Tung nói. “Nếu chúng ta không chuẩn bị nguồn cung cấp điện phát thải thấp, tôi lo ngại Đài Loan sẽ mất đi những lợi thế khó khăn mới có được”, ông chia sẻ thêm.
Sự quan tâm của ông Tung đối với vấn đề này có hai mặt: Ngoài việc giữ chức Chủ tịch Pegatron, ông còn là Phó chủ tịch ủy ban ứng phó với biến đổi khí hậu của Văn phòng Tổng thống kể từ tháng 6.
Hỗn hợp năng lượng tại các thủ phủ công nghệ châu Á. Ảnh: Nikkei Asia. |
Sự phụ thuộc của Đài Loan vào nhiên liệu hóa thạch vẫn ở mức cao, gần 80%. Chính phủ có kế hoạch loại bỏ dần năng lượng hạt nhân, nhưng năng lượng tái tạo vẫn chỉ chiếm khoảng 10% trong cơ cấu năng lượng của quốc gia này tính đến năm ngoái. Điều này khiến các công ty như Pegatron, đang trong quá trình mở rộng mạnh mẽ trong và ngoài nước, khó có thể giảm lượng khí thải carbon.
Giống như những người khác trong ngành công nghệ Đài Loan, ông Tung kêu gọi chính phủ tiếp tục sử dụng năng lượng hạt nhân cho đến khi công suất năng lượng xanh có thể tăng lên đủ mức.
Mối quan tâm của ông nhấn mạnh một tình thế tiến thoái lưỡng nan không chỉ riêng Đài Loan. Các nền kinh tế trên khắp châu Á đang cố gắng nắm bắt những cơ hội ngàn năm có một khi chuỗi cung ứng chuyển dịch khỏi Trung Quốc. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu họ có thể thu hút đầu tư vào chip, trí tuệ nhân tạo, trung tâm dữ liệu và các công nghệ khác trong khi vẫn đảm bảo đủ năng lượng sạch để duy trì tăng trưởng kinh tế và chống lại tình trạng nóng lên toàn cầu hay không.
Đây là một vấn đề đau đầu đối với cả nhà vô địch và người thách đấu.
Đài Loan và Hàn Quốc tự hào là ngành công nghiệp bán dẫn lớn thứ hai và thứ ba thế giới sau Mỹ, trong khi Nhật Bản đang nỗ lực lấy lại sức mạnh chip đã mất. Cả ba nền kinh tế này vẫn là những nước sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch, với Nhật Bản và Đài Loan thực sự ngày càng phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch kể từ thảm họa hạt nhân Fukushima năm 2011.
Vấn đề này xuất hiện ở cả những nơi như Việt Nam, Malaysia và Thái Lan, mỗi nơi đều được hưởng lợi chính từ việc các công ty chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng leo thang giữa Washington và Bắc Kinh.
Việt Nam hiện là nơi sản xuất hầu hết các dòng sản phẩm hiện tại của Apple cũng như điện thoại thông minh Samsung và máy tính xách tay Dell. Trong khi đó, Thái Lan đang trở thành trung tâm sản xuất bảng mạch in (PCB), máy tính xách tay, máy chủ và xe điện. Malaysia đã thu hút được nguồn đầu tư mới từ các nhà sản xuất chip và nhà cung cấp thiết bị hàng đầu như Intel, Infineon và Lam Research.
Nhưng những quốc gia này không chỉ đang phải vật lộn để cung cấp đủ năng lượng xanh mà trong nhiều trường hợp, họ còn gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu điện tăng cao từ nhiều nguồn.
Đồng thời, các công ty công nghệ toàn cầu đang nghiêm túc trong việc giảm phát thải. Trong khi đó, nhu cầu về năng lượng của công nghệ ngày càng tăng.
Số lượng ngày càng tăng các công ty thành lập cơ sở sản xuất bên ngoài Trung Quốc chỉ là một yếu tố gây căng thẳng cho nguồn cung cấp điện ở những nơi khác tại châu Á. Bản thân việc sản xuất chip đang trở nên tốn nhiều năng lượng hơn khi chip trở nên tiên tiến hơn. Thêm vào đó là sự bùng nổ của các trung tâm dữ liệu AI.
Ông Dedi Iskandar, Giám đốc nhóm giải pháp trung tâm dữ liệu châu Á – Thái Bình Dương của CBRE, cho biết số lượng trung tâm dữ liệu trong khu vực đã tăng ít nhất gấp đôi trong hai năm qua. Mục tiêu của khoản đầu tư mới cũng đang chuyển từ máy chủ truyền thống sang máy chủ AI, sẽ chiếm khoảng 37% tổng số trung tâm dữ liệu vào cuối thập kỷ này, theo dự báo của CBRE, tăng từ khoảng 16% vào năm ngoái.
Theo xu hướng này, nhu cầu năng lượng của trung tâm dữ liệu tại châu Á – Thái Bình Dương dự kiến sẽ tăng hơn 300% trong giai đoạn 2024 – 2030, đạt mức cao tới 6,5 gigawatt, theo Boston Consulting Group (BCG). Một gigawatt tương đương với lượng điện mà một lò phản ứng hạt nhân thông thường tạo ra.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và các nhà phân tích ngành máy chủ, lượng điện sử dụng từ các trung tâm dữ liệu có thể tăng gấp đôi lên 1.050 terawatt-giờ vào năm 2026, từ mức khoảng 460 TWh vào năm 2022, tương đương với nhu cầu điện của một nước Đức khác.
Đảm bảo nguồn năng lượng ổn định, thân thiện với môi trường là yếu tố quan trọng đối với các công ty khi họ lên kế hoạch mở rộng hoạt động và là vấn đề đau đầu đối với ngành công nghệ khi họ tìm cách mở rộng chuỗi cung ứng của mình.
Song, chuyển đổi sang năng lượng xanh đòi hỏi chính sách rõ ràng của chính phủ, đầu tư vào cơ sở hạ tầng điện và thường là các quy định mới hoặc được sửa đổi. Và đây là cuộc chạy đua với thời gian, vì các dự án năng lượng tái tạo thường mất nhiều năm để đi vào hoạt động, trong khi mong muốn nắm bắt sự bùng nổ công nghệ để tăng trưởng kinh tế đã hiện hữu.
Ấn Độ và Thái Lan đã cam kết đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2070 và 2065, trong khi ít nhất 6 nền kinh tế châu Á khác đang hướng tới mốc thời gian quyết liệt hơn là năm 2050. Nhưng cả 8 quốc gia này vẫn phụ thuộc rất nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, trong đó năng lượng tái tạo chỉ chiếm một hoặc hai chữ số trong cơ cấu năng lượng của họ.
Hơn nữa, chi tiêu không tăng đủ nhanh để duy trì các mục tiêu về khí hậu của khu vực. Theo IEA, Đông Nam Á chỉ chiếm 2% chi tiêu toàn cầu cho năng lượng sạch, mặc dù chiếm 6% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu.
Nguồn Nikkei Asia