Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống của con người, sinh vật; sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và của nhân loại. Những năm gần đây, chúng ta đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về an ninh phi truyền thống rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sự tồn tại và phát triển của nhân loại như biến đổi khí hậu toàn cầu, sự suy giảm tầng ôzôn, gia tăng hiệu ứng nhà kính; động đất, cháy rừng; sóng thần, hạn hán, nắng nóng, bão lũ,…; sự cố kỹ thuật gây nguy hại về an ninh môi trường, tổn thất đa dạng sinh học; khan hiếm nguồn nước và cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ tài nguyên và môi trường
Bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) bền vững đã và đang là vấn đề quan tâm của mọi cấp, mọi ngành, của mỗi quốc gia trên thế giới; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo ở từng nước, với cuộc đấu tranh vì hoà bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là vấn đề mang tính toàn cầu, là một trong những nhân tố quyết định sự thành công mục tiêu phát triển bền vững, góp phần bảo đảm ổn định chính trị và an ninh của các quốc gia trên thế giới. Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững do Liên hợp quốc tổ chức tại Nam Phi từ ngày 26/8 đến ngày 4/9/2002, các quốc gia trên thế giới đã có nhiều nỗ lực giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc và đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, tình hình vẫn cấp bách, các nguy cơ càng trở nên rõ rệt và nghiêm trọng, đến mức trở thành mối đe doạ thực sự tới an toàn cuộc sống của con người và đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới đó là: bão lũ, động đất, tràn dầu, cháy rừng, rò rỉ hoá chất độc – phóng xạ, bom mìn, vật liệu nổ, chất thải các nhà máy công nghiệp, bệnh viện… ảnh hưởng sức khoẻ con người.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp bảo vệ môi trường, coi công tác bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là nội dung không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển KT-XH của nước ta; là cơ sở quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo báo cáo hiện trạng môi trường những năm qua cho thấy, thế giới nói chung, nước ta nói riêng đã và đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại; do sự phát triển mạnh của dân số và quá trình đô thị hoá, trong khi ý thức tự giác bảo vệ môi trường chưa trở thành thói quen trong cách sống của đại bộ phận nhân dân; rừng tiếp tục bị tàn phá và bị cháy, có nơi rất nghiêm trọng; khoáng sản vẫn bị khai thác bừa bãi, đất đai bị xói mòn, thoái hoá, đa dạng sinh học bị suy giảm; nguồn nước mặt, nước ngầm đang ngày bị ô nhiễm và có nguy cơ cạn kiệt; khu đô thị và công nghiệp đã và đang bị ô nhiễm cả khí thải, nước thải và rác thải; điều kiện vệ sinh môi trường ở nông thôn còn thấp kém; các quy định về an toàn thực phẩm còn bị vi phạm, sự cố môi trường gây thiệt hại cả về người và tài sản còn rất nặng nề.
Đối với quân đội ta, vấn đề bảo vệ môi trường là vấn đề rất cấp thiết, vì nó gắn liền với việc nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường được Nhà nước ban hành, ngày 01/9/1995, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra Chỉ thị số 769/CT-QP về việc triển khai nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quân đội, đưa hoạt động bảo vệ môi trường trở thành phong trào rộng khắp trong toàn quân. Thực hiện Chỉ thị 36-CT/TƯ của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; quán triệt NQTƯ (khoá 8), Chỉ thị số 19, ngày 19/3/1996 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và các nghị quyết, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc quân đội thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường, những năm qua hoạt động nghiên cứu khoa học môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường của quân đội ta có nhiều tiến bộ và đã thu đưọc những kết quả đáng khích lệ, như: nhận thức về bảo vệ môi trường của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên được nâng cao; nhiều đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, học viện, nhà trường, kho tàng, bệnh viện đã khảo sát, đánh giá tác động môi trường và có các giải pháp nhằm giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường như: đầu tư xây dựng công trình xử lý chất ô nhiễm; bảo đảm nước sạch và vệ sinh môi trường; tích cực triển khai nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất phương án xây dựng lực lượng nòng cốt ứng cứu và khắc phục các sự cố môi trường trên phạm vi toàn quốc.
Hoạt động điều tra, khảo sát, xử lý, khắc phục chất độc hoá học, bom mìn, vật nổ tồn lưu sau chiến tranh đã được thực hiện bằng cả sự nỗ lực của nhiều đơn vị quân đội cũng như sự phối hợp với các cơ quan của nhà nước nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu sự nguy hại đối với sức khoẻ bộ đội, nhân dân và môi trường xung quanh. Trong thời gian qua, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, liên tục nhiều ngày đêm tham gia chữa cháy rừng, chống lụt bão và tham gia thực hiện trồng hàng triệu ha rừng, cùng với việc xây dựng và đưa các công trình xử lý nước thải, rác thải tại các nhà máy, bệnh viện, đơn vị vào hoạt động là những minh chứng về trách nhiệm cao của quân đội đối với cuộc sống của nhân dân và sự nghiệp bảo vệ môi trường của đất nước.
Giải pháp và kiến nghị
Từ thực trạng tình hình quản lý và bảo vệ môi trường toàn cầu cũng như ở nước ta hiện nay đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Để tăng cường khả năng quản lý, bảo vệ môi trường trong tình hình mới, chúng ta cần nghiên cứu một số định hướng cơ bản: “Quân đội với Chiến lược bảo vệ môi trường trong thời kỳ hội nhập quốc tế”:
Trước hết, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, chiến sĩ về tầm quan trọng và vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, của quân đội nói riêng trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường, trong phòng, chống thiên tai, bão lũ, ứng phó với những sự cố môi trường – đây đều là những công việc khó khăn, nguy hiểm, khó lường trước những tình huống bất trắc xảy ra, có thể hy sinh, tổn thất trong khi thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho bộ đội ý thức về vị trí, vai trò của quân đội đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của quân đội và coi đây là “một nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình” mà quân đội nhất thiết phải tham gia và hoàn thành tốt. Đồng thời, giáo dục cho bộ đội thấm nhuần chủ trương, chính sách, nắm vững các văn bản quy định của Nhà nước liên quan đến bảo vệ môi trường, như: Pháp lệnh Bảo vệ môi trường, Pháp lệnh Phòng cháy, Chữa cháy, Pháp lệnh Phòng chống bão lũ, các nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ giao nhiệm vụ cho quân đội tham gia bảo vệ môi trường… Từ đó xây dựng quyết tâm, ý thức trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương nơi đơn vị đóng quân từ khâu lập kế hoạch đến việc sử dụng lực lượng, phương tiện ứng phó với từng loại thảm họa, sự cố, đặc biệt là tai nạn tàu, thuyền trên biển, lụt, bão, cháy nổ và sập đổ công trình trong các thành phố lớn… Khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, từ kiện toàn hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, xây dựng kế hoạch, luyện tập, diễn tập theo phương án đến chuẩn bị lực lượng, phương tiện kỹ thuật, hậu cần để chủ động đối phó có hiệu quả với các thảm họa gây ra.
Quân đội hiện có Trung tâm Khoa học Kỹ thuật – Công nghệ Quân sự, Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga, cần xây dựng và phát triển các trung tâm này đủ mạnh để đảm đương được vai trò là cơ quan “Tổ chức nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường quân sự đầu đàn của quân đội và mạnh của quốc gia”. Trung tâm phải trở thành một cơ quan phối, kết hợp tốt giữa các cơ quan nghiên cứu, đào tạo trong và ngoài quân đội và hợp tác quốc tế; là nơi tập trung chỉ đạo, tập trung được lực lượng, tập trung đầu tư, điều kiện để đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ và môi trường phát huy cao nhất năng lực hoạt động sáng tạo, tạo những đột phá cơ bản trong chiến lược bảo vệ môi trường, đủ sức giải quyết những vấn đề do chính nhu cầu từng bước hiện đại hóa quân đội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra.
Hai là, cần nắm vững quan điểm: chủ động, tích cực, phòng ngừa trong quản lý và bảo vệ môi trường.
Quản lý và bảo vệ môi trường thời kỳ hội nhập quốc tế là vấn đề đặc biệt quan trọng, là một nội dung cần được các cấp, các bộ, ngành quan tâm và tạo sức mạnh toàn diện trong thực hiện; đồng thời, phải hết sức chú trọng phát huy tính chủ động, tích cực, phòng ngừa, đấu tranh giữ vững môi trường trong sạch, chỉ có như vậy mới quản lý bảo vệ môi trường có hiệu quả.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, với những diễn biến phức tạp, khó l-ường, luôn có tác động về nhiều mặt đến công tác bảo vệ môi trường trong sự nghiệp xây dựng đất nước, nên rất cần phát huy tốt tính chủ động, tích cực ngay trong xây dựng, chuẩn bị và quá trình đấu tranh bảo vệ môi trường quốc gia; giải quyết có hiệu quả những tình huống khó khăn phức tạp; kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ có thể dẫn tới xung đột môi trường để xây dựng và phát triển đất nước.
Chủ động, tích cực trong đấu tranh bảo vệ môi trường được thể hiện, trước hết là luôn đề cao ý thức cảnh giác, thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình, tổ chức thu thập, phân tích và dự báo chính xác những diễn biến có liên quan tới môi trường. Nắm tình hình đòi hỏi phải toàn diện, chủ động kết hợp nhiều nguồn, nắm cả tình hình trong và ngoài nước, từ xa đến gần, trên đất liền và trên biển, đảo… Có vậy, chúng ta mới luôn chủ động trong phân tích, đánh giá, có đối sách đúng đắn, chính xác, kịp thời trong xử lý tình huống và không để bị động, bị bất ngờ.
Chủ động, tích cực bảo vệ môi trường còn thể hiện trong chỉ đạo kết hợp với quá trình củng cố xây dựng tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng các khu vực bảo vệ môi trường toàn diện; xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ môi trường thực sự vững mạnh về mọi mặt, đủ sức hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Trong quản lý bảo vệ môi trường: chủ động, tích cực biểu hiện cụ thể trong tiến trình hội nhập quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; chủ động trong vận dụng đúng đắn các đối sách kết hợp với nhiều biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ, mọi mầm mống gây ra sự cố về môi trường như: tràn dầu, đổ rác thải phế liệu, bão lũ, cháy nổ, cháy rừng gây thiệt hại cho người và môi trường.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ môi trường, bao gồm cán bộ phụ trách công tác kỹ thuật ở các đơn vị, các cơ sở sản xuất quốc phòng, các cơ quan nghiên cứu, thiết kế và công nghệ, các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội, các cơ quan tham mưu chiến lược, cán bộ chỉ huy và quản lý kỹ thuật… Đội ngũ cán bộ chuyên trách bảo vệ môi trường hiện nay tuyệt đại đa số được đào tạo cơ bản trong và ngoài nước, có quá trình lâu dài gắn bó với thực tiễn, có năng lực hành động, kế thừa và học tập được nhiều kinh nghiệm của các thế hệ cán bộ khoa học đàn anh, đã và đang có nhiều đóng góp cho sự nghiệp chiến đấu và xây dựng của quân đội ta.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều đồng chí tuổi đã cao, ít có điều kiện tiếp xúc với công nghệ mới, điều kiện và khả năng cập nhật thông tin còn nhiều hạn chế. Do đó, để tiếp tục sử dụng và phát huy tốt đội ngũ cán bộ khoa học hiện có, cần thực hiện tốt kế hoạch bồi dưỡng và đào tạo lại, nhằm bổ sung cho họ những kiến thức và phương pháp hiện đại, giúp họ có điều kiện tiếp cận được thông tin mới bằng các hình thức khác nhau, nâng cao tri thức và nghiệp vụ chỉ huy, quản lý. Đối với cán bộ khoa học chuyên làm công tác bảo vệ môi trường, đào tạo theo học vị không phải ở vị trí nào cũng cần thiết, mà cơ bản là phải tạo điều kiện để họ tự trang bị cho mình phương pháp và công cụ để học tập suốt đời. Cán bộ làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo ở các trung tâm bảo vệ môi trường Bộ Quốc phòng nên đào tạo, bồi dưỡng theo các chức danh kỹ sư chính, kỹ sư cao cấp, để đảm đương được cương vị Tổng công trình sư trong các dự án lớn. Cần có chính sách để phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật cao cấp có kinh nghiệm trong thực tiễn, có nhiều đóng góp tốt trong thời gian qua để họ có thể tiếp tục làm việc trong vai trò cố vấn, chuyên gia khoa học và đào tạo cán bộ trẻ.
Bốn là, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, điều kiện thông tin (kể cả hợp tác quốc tế)… Đây là vấn đề quan trọng trong tiềm lực khoa học và công nghệ môi trường. Trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, được sự quan tâm đầu tư trực tiếp của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, chúng ta đã có một hệ thống các phòng thí nghiệm, song nhìn chung, các trang thiết bị còn thiếu đồng bộ và chậm được đổi mới. Gần đây, Nhà nước đã đầu tư cho một số cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong quân đội một số phòng thí nghiệm, tạo bước đổi mới đáng kể trong việc thí nghiệm, thực nghiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường, nhưng vẫn chưa thể đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Nghiên cứu khoa học – công nghệ quân sự bảo vệ môi trường cần tránh hai khuynh hướng: nghiên cứu xa rời thực tiễn, ít có giá trị ứng dụng trực tiếp và khuynh hướng chỉ “chạy” theo những vấn đề cụ thể trước mắt, không tính đến hướng phát triển lâu dài. Trong lộ trình phát triển, khoa học nước ta chưa nên đi vào những nghiên cứu cơ bản lớn, những nghiên cứu có tính chất phát minh khoa học và xây dựng hệ thống lý thuyết mới, mà cần đi sâu nắm vững cơ sở khoa học cơ bản của công nghệ, công nghệ nền, tiếp thu và làm chủ công nghệ được chuyển giao qua những con đường khác nhau và từng bước sáng tạo công nghệ mới trong chiến lược bảo vệ môi trường.
Năm là, thành lập cơ quan tổ chức điều hành chung cấp quốc gia để định hướng nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ “lưỡng dụng” phục vụ bảo vệ môi trường. Định hướng này phải được Đảng và Nhà nước phê duyệt và có sự đầu tư thích đáng từ nhiều nguồn tài chính khác nhau. Bất cứ nước nào cũng có sự ưu tiên nhất định đối với việc nghiên cứu phát triển và ứng dụng các công nghệ cao vào mục đích phát triển KT-XH cũng như phục vụ mục tiêu chiến lược bảo vệ môi trường của quốc gia. Tuy nhiên, khi nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ cao để phục vụ QP-AN thì chính những thành tựu của việc nghiên cứu và ứng dụng này cũng sẽ tác động mạnh mẽ vào sự phát triển KT-XH và cả môi trường. Do vậy, cần xem xét một cách khoa học về công nghệ ứng dụng quốc gia (cả trong và ngoài quốc phòng) một cách thống nhất, ưu tiên cho những công nghệ mang tính bảo vệ môi trường cao. Phải xây dựng một cơ chế huy động, phối kết hợp để có thể liên kết hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ trong chiến lược bảo vệ môi trường thành một sức mạnh to lớn, dưới sự chỉ đạo của một cơ quan thống nhất được quản lý ở cấp quốc gia.
Từ thực tiễn chỉ đạo, tổ chức các hoạt động bảo vệ môi trường Bộ Quốc phòng kiến nghị Chính phủ nghiên cứu, điều chỉnh ngân sách, tăng cường trang bị cho lực lượng bảo vệ môi trường của quân đội, nhất là các quân khu, quân chủng, Bộ đội Biên phòng, quân đoàn, binh chủng các phương tiện chuyên dụng hiện đại, phương tiện bảo đảm thông tin liên lạc… Về lâu dài, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh các chương trình trồng rừng, bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn, ở các vùng, khu vực thường xuyên chịu tác động của thiên tai, lụt bão, coi đây là biện pháp cơ bản, có hiệu quả nhất để bảo vệ môi trường; đồng thời chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là quy hoạch mạng lưới giao thông, thuỷ lợi, đê điều, hồ đập ở vùng đầu nguồn, vùng cao, nhằm giảm nhẹ lưu lượng mưa đổ về trong mùa mưa và cấp nước trong mùa khô hạn. Đề nghị các bộ, ngành tăng cường công tác kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra, giám sát về mặt kỹ thuật, đảm bảo độ an toàn hoạt động cho người và các phương tiện theo quy định; chú trọng công tác đào tạo, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành nghiêm các quy định pháp luật về an toàn lao động, an toàn giao thông, tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn, chuyên ngành cho cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật.
Các cơ quan bảo vệ môi trường trong quân đội cần phải tích cực hơn nữa trong việc làm tham mưu, giúp cho lãnh đạo, chỉ huy quản lý thực hiện các ch-ương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường và bằng các hành động thiết thực, liên kết chặt chẽ hơn nữa để giải quyết tốt các vấn đề môi trường của Bộ Quốc phòng cũng như tham gia vào chiến lược bảo vệ môi trường của đất nước góp phần bảo vệ Trái Đất – ngôi nhà chung của toàn nhân loại, thực hiện tốt Chư-ơng trình bảo vệ môi trường của Liên hợp quốc đã đề ra.
“Quân đội với Chiến lược bảo vệ môi trường” những năm qua đã có nhiều đóng góp rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng phát triển đất nước. Những kết quả đạt được trong thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường đã góp phần đẩy mạnh xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng và nhân dân.