Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới việc khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất-một điểm sáng của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 – một sự kiện vĩ đại trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi trọn vẹn, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Thành công của Cách mạng Tháng Tám đã để lại nhiều bài học quý báu cho dân tộc Việt Nam. Một trong những bài học đó là bài học về đoàn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thể hiện tầm nhìn chiến lược về ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài, gian khổ của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng Cộng ản Việt Nam, là sự sáng suốt của Hồ Chí Minh trong sách lược và tầm nhình chiến lược đối ngoại. Đặc biệt, việc dự báo đúng tình thế, nhận định đúng thời cơ, kết hợp nội lực và ngoại lực đã thể hiện một tầm nhìn ngoại giao thiên tài của Hồ Chí Minh.
Với nhãn quan chính trị sắc bén, bằng uy tín và kinh nghiệm, thông qua con đường ngoại giao, Người đã tranh thủ tối đa mọi sự ủng hộ của Đồng minh và các lực lượng tiến bộ khác trên thế giới và khu vực, kết hợp với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh của quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đã quyết định những vấn đề quan trọng về đối nội, thi hành 10 chính sách của Việt Minh, về đối ngoại, thực hiện chính sách “thêm bạn bớt thù”.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Tuyên ngôn độc lập”, Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân đủ các tầng lớp ở Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của mình bằng những lý lẽ bất hủ của tổ tiên người Mỹ và người Pháp được trích dẫn trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của họ. “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” . Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” . Cách lập luận này vừa khéo léo lại vừa cương quyết. Khéo léo vì Bác cho người đọc thấy rõ sự tôn trọng của mình đối với bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam được hưởng tự do, độc lập mà tự mình giành lại từ tay Nhật: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã dũng cảm đứng về phía Đồng minh chống phát xít; dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập…. Và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bản Tuyên ngôn khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền thiêng liêng ấy: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử trọng đại, và ngày 2-9-1945 mãi mãi ghi vào lịch sử Việt Nam là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam – Ngày tuyên bố Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Như vậy, có thể khẳng định, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám gắn liền với quyết định táo bạo và kịp thời của Hồ Chí Minh; thể hiện tầm nhìn ngoại giao sắc sảo của Người trong việc tranh thủ các lực lượng tiến bộ bên ngoài, phát huy nội lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử. Đó chính là hiện thân của sự mẫn cảm chính trị, tầm nhìn ngoại giao thiên tài của Người.
Thượng tướng, Viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu
Đất nước ta đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. trên mặt trận đối ngoại, lấy Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bắt nguồn từ cuộc Cách mạng Tháng Tám làm kim chỉ nam đã được kiểm chứng và đã mang lại những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, thì việc vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh như “hòa để tiến”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực để tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc càng trở nên có ý nghĩa to lớn.
Hiện nay, trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, hoạt động, đối ngoại quốc phòng-an ninh phải quán triệt nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo vệ thống nhất, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” , theo phương châm thêm bạn bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Khi đất nước ta hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhiều lĩnh vực khác đang là xu thế khách quan của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia-dân tộc ngày càng lớn; quan hệ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh giữa các nước trên thế giới cũng phát triển năng động và đa dạng hơn trước rất nhiều. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ tạo dựng được môi trường hoà bình, ổn định, tiếp thu được những kinh nghiệm tiên tiến và sự hợp tác trao đổi về mọi lĩnh vực của các nước, điều đó rất có lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng-an ninh. Xây dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng có đủ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức luật pháp quốc tế để phục vụ cho công tác đối ngoại và có thể tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc với hiệu quả cao nhất. Tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới vừa mang tính cơ bản lâu dài vừa mang tính cấp bách trong tình hình mới. Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN, được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc “đồng thuận”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, “không biến Cộng đồng ASEAN thành liên minh quân sự hay khối phòng thủ chung”… và các nguyên tắc cơ bản khác của Hiến chương ASEAN. Tham dự các hội nghị quốc phòng các nước ASEAN ở tất cả các cấp, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng quốc phòng, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, chống khủng bố, tham gia các hoạt động nhân đạo trong phòng chống thiên tai, cử quan sát viên tới dự các cuộc diễn tập quân sự của các nước trong khu vực…
Do đó, công tác đối ngoại nói chung, đối ngoại quốc phòng nói riêng cần giữ vững quan điểm, nguyên tắc, đồng thời phải rất linh hoạt, năng động, sáng tạo trong sách lược phù hợp với điều kiện cụ thể và đối tác ta có quan hệ, trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp nội bộ của nhau, không đe dọa sử dụng và sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, cùng phát triển. Đồng thời, hoạt động đối ngoại còn phải bám sát nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Nghị Quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định những nguyên tắc nền tảng của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Theo chủ trương đó, Đảng, Nhà nước ta đã chủ động, tích cực mở rộng các hoạt động đối ngoại, đưa quan hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và quốc tế lên một tầm cao mới vô cùng quan trọng cho sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.
Hiện nay, tình hình trong và ngoài nước có nhiều biến động với những thuận lợi và thách thức đan xen. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc xung đột Nga- Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc, tác động sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế xã hội và quan hệ quốc tế. Sau đại dịch COVID-19 các quốc gia từng bước mở cửa thực hiện phục hồi kinh tế. Kinh tế thế giới đang phục hồi chậm. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu… tiếp tục đặt ra nhiều thách thức đối với quản trị toàn cầu. Tình hình Biển Đông vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, đe dọa sự ổn định và an ninh ở khu vực.
Thời điểm này đất nước diễn ra nhiều sự kiện chính trị, xã hội, đối ngoại quan trọng. Công tác đối ngoại quốc phòng đã bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước như: các chuyến thăm, làm việc, trao đổi của lãnh đạo cấp cao. đối ngoại quốc phòng tiếp tục trở thành một trong những trụ cột quan trọng của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Đảng, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, trong đó, hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các nước được củng cố, thúc đẩy, đạt hiệu quả thực chất, chú trọng vào các lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu và khả năng, như: Trao đổi đoàn các cấp; duy trì các cơ chế đối thoại, tham vấn; đào tạo; công nghiệp quốc phòng; hợp tác quân binh chủng; khắc phục hậu quả chiến tranh; quân y; gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Hoạt động đối ngoại biên phòng tiếp tục là điểm sáng, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị và tin cậy với các nước láng giềng, bảo vệ vững chắc vành đai an ninh của Tổ quốc. Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam – Trung Quốc lần thứ 8 tại Lào Cai, Việt Nam và Vân Nam, Trung Quốc, do Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đang dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham gia. Hoạt động góp phần cụ thể hóa “Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc về tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”; Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ nhất. Đây là sự kiện chính trị quan trọng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, làm tăng cường mối quan hệ giữa quân đội, chính quyền địa phương và nhân dân ba nước; giúp các bên có cơ hội giao lưu, hợp tác quốc phòng, hợp tác biên phòng, giao lưu văn hóa dân tộc, hợp tác kinh tế, tăng cường tình đoàn kết, hòa bình hữu nghị; Tổ chức đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng, ký kết văn bản quản lý biên giới với Trung quốc; phối hợp với Lào tổ chức diễn tập ngăn chặn di cư tự do, xuất, nhập cảnh trái phép; giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia; giao lưu sĩ quan trẻ Biên phòng với lực lượng bảo vệ biên giới Campuchia, v.v. .. đã đóng góp thiết thực, hiệu quả cho sự phát triển tích cực của tình hình kinh tế – xã hội, sự phục hồi mạnh mẽ các hoạt động kinh tế. Đối ngoại quốc phòng đã góp phần to lớn vào thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và xung đột. Thông qua đẩy mạnh, mở rộng quan hệ về quân sự, quốc phòng, chúng ta có thêm điều kiện để giữ vững an ninh trên bộ, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tăng cường tiềm lực quốc phòng để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, cùng các quốc gia và đối tác quốc tế giải quyết các thách thức an ninh chung đang đặt ra cho toàn thế giới hiện nay.
Với ý chí bền bỉ và ấm áp tình người như câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước thì thương nhau cùng”; thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã để lại: “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; hãy thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ” tôi thiết nghĩ với Ý CHÍ, TRUYỀN THỐNG QUẬT CƯỜNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM. Cần lắm sự chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, toàn quân, toàn dân vào cuộc, chung sức, đồng lòng giúp nhau vượt qua mọi khó khăn của đất nước./.